Luật Nhập cư và Quốc tịch năm 1965 là một đạo luật liên bang được
Quốc hội Hoa Kỳ khóa 89 thông qua và được Tổng thống
Lyndon B. Johnson ký ban hành.
[1] Đạo luật bãi bỏ hạn ngạch nhập cư dựa trên nguồn gốc dân tộc trong chính sách nhập cư của Hoa Kỳ
[2] và chính thức cho phép tăng nhập cư từ
Nam Âu,
Đông Âu,
châu Á và những dân tộc khác ngoài
Tây Âu,
Bắc Âu.
[3]Hạn ngạch nguồn gốc dân tộc được quy định từ thập niên 20 nhằm duy trì tính đồng nhất của dân số Hoa Kỳ thông qua thúc đẩy nhập cư từ Tây và Bắc Âu.
[2][4] Trước khi đạo luật được ban hành, dân số Hoa Kỳ gồm 85% người Mỹ da trắng, 11% người Mỹ gốc Phi, ít hơn 4% người Mỹ gốc Latinh. Từ thập niên 60, khi
phong trào dân quyền Hoa Kỳ vào hồi cao trào, hạn ngạch nguồn gốc dân tộc bị lên án là
phân biệt chủng tộc. Với sự ủng hộ của chính quyền Johnson, Thượng nghị sĩ Philip Hart và Hạ nghị sĩ Emanuel Celler trình một dự luật nhằm bãi bỏ hạn ngạch nhập cư.
[5] Dự luật được đông đảo nghị sĩ
Đảng Dân chủ và
Đảng Cộng hòa phía bắc ủng hộ nhưng bị những nghị sĩ bảo thủ phía nam phản đối mạnh mẽ.
[6][7] Ngày 3 tháng 10 năm 1965, Tổng thống Johnson ký ban hành Luật Nhập cư và Quốc tịch năm 1965. Đạo luật mở cửa nhập cư từ những khu vực ngoài
Tây Âu và
Bắc Âu và thay đổi đáng kể nhân khẩu của Hoa Kỳ.
[8]Luật Nhập cư và Quốc tịch năm 1965 quy định bảy diện thị thực ưu tiên dành cho người thân, con cái của công dân Hoa Kỳ và thường trú nhân, chuyên gia, cá nhân có kỹ năng chuyên môn và người tị nạn.
[9] Đạo luật lần đầu tiên giới hạn số lượng nhập cư từ
Tây Bán cầu dưới 120.000 người mỗi năm.
[10] Từ khi đạo luật được ban hành, số lượng
nhập cư vào Hoa Kỳ từ châu Á,
châu Phi,
Đông Âu và
Nam Âu bắt đầu tăng mạnh.